Streptococcus viridans
Streptococcus viridans là gì?
- Streptococcus viridans là các trực khuẩn Gram dương hiếu khí gây ra nhiều chứng rối loạn, bao gồm viêm họng, viêm phổi, nhiễm trùng vết thương và da, nhiễm trùng huyết, và viêm nội tâm mạc.
----------------------------------------------------
Phân loại liên cầu
- Ba loại liên cầu khác nhau được phân biệt khi chúng được nuôi cấy trên môi trường thạch máu cừu:
- Các liên cầu tan huyết beta tạo ra những vùng tan máu rõ ràng quanh mỗi khuẩn lạc.
- Các liên cầu tán huyết Alpha (thường được gọi là Streptococci viridans) được bao quanh bởi sự đổi màu xanh lá cây do sự tan máu không hoàn chỉnh.
- Liên cầu tán huyết-gamma không tan máu.
- Phân loại tiếp theo, dựa trên carbohydrate trong thành tế bào, phân chia liên cầu thành 20 nhóm Lancefield từ A đến H và K đến T (xem bảng Phân loại của Lancefield*). Streptococci Viridans tạo thành một nhóm riêng biệt rất khó phân loại. Trong phân loại của Lancefield, cầu khuẩn đường ruột ban đầu được đưa vào nhóm liên cầu nhóm D. Gần đây hơn, cầu khuẩn đường ruột đã được phân loại như một chi riêng biệt. Một số liên cầu như Phế cầu khuẩn là loại tan máu alpha, tức là chúng là một loại liên cầu khuẩn viridans, và không biểu hiện kháng nguyên Lancefield. Nhóm Lancefield từ K đến V là các loài liên cầu có độc lực hạn chế có thể gây nhiễm trùng ở những người bị suy giảm miễn dịch.
Các yếu tố độc lực
- Nhiều Streptococci tạo ra các yếu tố độc lực, bao gồm streptolysins, DNAases, và hyaluronidase, góp phần phá hủy mô và lây lan bệnh. Một vài chủng tạo ra ngoại độc tố kích hoạt các tế bào T nhất định, kích hoạt sự phóng thích các cytokine, bao gồm yếu tố hoại tử khối u-alpha, interleukins, và các chất điều hòa miễn dịch khác. Những cytokine kích hoạt hệ thống bổ thể, đông máu, và ly giải fibrin, dẫn đến sốc, suy cơ quan và tử vong.
Chẩn đoán nhiễm trùng liên cầu
- Nuôi cấy
- Đôi khi xét nghiệm kháng nguyên nhanh hoặc xét nghiệm nồng độ kháng thể
- Liên cầu dễ dàng xác định được bằng cách nuôi cấy trên thạch máu cừu.
- Xét nghiệm phát hiện kháng nguyên nhanh có thể phát hiện GABHS trực tiếp dịch ngoáy họng (tức là để sử dụng tại điểm chăm sóc). Nhiều xét nghiệm sử dụng xét nghiệm miễn dịch enzym, nhưng gần đây các thử nghiệm sử dụng phương pháp miễn dịch quang học đã trở nên khả dụng. Các xét nghiệm nhanh này có độ đặc hiệu cao (> 95%) nhưng khác nhau đáng kể về độ nhạy (55% đến 80 đến 90% đối với xét nghiệm miễn dịch quang học mới hơn). Do đó, kết quả dương tính có thể thiết lập chẩn đoán, nhưng kết quả âm tính, ít nhất ở trẻ em, nên được xác nhận bằng nuôi cấy. Vì viêm họng do liên cầu ít phổ biến hơn ở người lớn và ít biến chứng, nhiều bác sĩ lâm sàng không nuôi cấy khi xét nghiệm nhanh âm tính trừ khi sử dụng macrolide; trong những trường hợp như vậy, cần phải kiểm tra tính nhạy cảm để phát hiện tính kháng macrolide.
- Chứng minh kháng thể liên cầu trong huyết thanh trong thời kỳ giai đoạn hồi phục chỉ cung cấp bằng chứng gián tiếp về nhiễm trùng. Các xét nghiệm kháng thể chống liên cầu khuẩn không có ích trong chẩn đoán nhiễm GABHS cấp tính vì kháng thể có sau vài tuần nhiễm bệnh và một chỉ số kháng thể cao phản ánh một nhiễm trùng trước đó. Các kháng thể hữu ích nhất trong chẩn đoán bệnh giai đoạn sau, như thấp khớp và viêm tiểu cầu thận.
- Hoạt độ kháng thể liên cầu O (ASO) và antidesxyribonuclease B (kháng DNase B) bắt đầu tăng lên khoảng 1 tuần sau khi nhiễm GABHS và cao nhất khoảng 1 đến 2 tháng sau khi nhiễm trùng. Cả 2 đều có thể tăng lên trong vài tháng, ngay cả sau khi nhiễm trùng không biến chứng. Các hiệu giá được đo trong giai đoạn cấp tính và giai đoạn dưỡng bệnh, từ 2 đến 4 tuần sau đó; một kết quả dương tính được định nghĩa là sự gia tăng ≥ 2 lần hiệu giá. Một hiệu giá duy nhất lớn hơn giới hạn trên của mức bình thường gợi ý nhiễm trùng liên cầu trước tiền sử hoặc tỷ lệ lưu hành liên cầu cao trong cộng đồng. Hoạt độ ASO chỉ tăng từ 75 đến 80% trường hợp nhiễm trùng. Để chẩn đoán trong các trường hợp khó, bất kỳ một trong các xét nghiệm khác (antihyaluronidase, antinicotinamide adenine dinucleotidase, antistreptokinase) cũng có thể được sử dụng.
- Penicillin được cho trong vòng 5 ngày đầu tiên đối với viêm họng liên cầu có thể làm chậm sự xuất hiện và giảm mức độ phản ứng ASO.
- Bệnh nhân bị viêm mủ do liên cầu thường không có phản ứng ASO đáng kể nhưng có thể đáp ứng với các kháng nguyên khác (ví dụ, chống DNAase, antihyaluronidase).